Năm
B
Lễ Hiển Linh
(Bài 1)
Người
quyết tâm tìm Thiên Chúa
sẽ gặp được Ngài
bất chấp họ là người ngoại giáo
I. ÐỌC LỜI CHÚA
● Is 60:1-6:
(1) Ðứng lên,
bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Ðức Chúa như bình
minh chiếu toả trên ngươi.
● Ep 3:1-12:
(6) Trong Ðức
Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với
người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.
● TIN MỪNG: Mt
2:1-12
Các nhà chiêm tinh
đến bái lạy Ðức Giêsu Hài Nhi
(1) Khi Ðức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời
vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Ðông đến Giêrusalem, (2) và hỏi: Ðức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?
Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Ðông, nên chúng tôi đến
bái lạy Người. (3) Nghe tin
ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh
sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Ðấng Kitô phải sinh ra ở đâu. (5) Họ trả lời: Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách
ngôn sứ, có chép rằng: (6) "Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu
phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen
dân Ta sẽ ra đời".
(7) Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh
đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: Xin
quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho
tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người. (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ
đã thấy ở phương Ðông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng
lại. (10) Trông
thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria,
liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc
dược mà dâng tiến. (12) Sau đó,
họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về
xứ mình.
II. CHIA SẺ
Câu
hỏi gợi ý:
1. Các
thượng tế và kinh sư Do Thái biết rõ Ðấng Cứu Thế sinh ra ở đâu lại không đến
gặp Ngài, còn các nhà chiêm tinh ở mãi tận đâu đâu, phải nhờ các thượng tế và
kinh sư Do Thái chỉ cho, thì lại gặp được Ngài. Tại sao lại có chuyện mỉa mai
và nghịch lý như vậy?
2. Rút
kinh nghiệm từ bài Tin Mừng thì để gặp được Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là
gì? Cần phải có tôn giáo chân chính, hay phải có thiện chí và quyết tâm đi tìm
Ngài? Cái nào là yếu tố quyết định để gặp được Ngài?
3. Ðộng
lực gì khiến vua Hêrôđê muốn giết hài nhi Giêsu, cho dù biết hài nhi ấy là
người của Thiên Chúa? Tuy Kinh Thánh không đề cập đến, nhưng ta thử đoán xem
các thượng tế và kinh sư Do Thái - với bản chất của họ như ta đã thấy trong các
Tin Mừng - đã có thái độ nào trước tội ác của Hêrôđê: can đảm ngăn cản nhà vua
hay mặc kệ Ðấng Cứu Thế mà họ mong chờ ra sao thì ra?
Suy
tư gợi ý:
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba hạng người khác nhau
với ba thái độ khác nhau đối với Ðức Giêsu mới sinh ra. Trước hết là các nhà
chiêm tinh đến từ phương Ðông, sau là các thượng tế và kinh sư tại Giêrusalem,
và cuối cùng là vua Hêrôđê.
1. Thái độ của các nhà chiêm tinh Đông
Phương
Các nhà chiêm tinh được nói đến trong bài Tin Mừng là
những người thuộc dân ngoại, không phải là người theo chính đạo là Do Thái giáo
do Thiên Chúa sáng lập. Họ đại diện cho những người có lòng tìm chân lý trong các
dân tộc, các quốc gia thuộc nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới được Thiên
Chúa mặc khải con đường để họ ra đi và đến thờ lạy Ðức Giêsu, Ðấng trong tương
lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thế giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà
chiêm tinh là thái độ của những người tìm kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa,
với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương, bất chấp họ theo tôn giáo
hay tín ngưỡng nào. Và chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên
họ đã gặp, đúng như Ðức Giêsu nói: «Ai
xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho» (Mt 7:8). Khi ngôi
sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp
tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm, như Kinh Thánh đã từng
bảo đảm: «Các ngươi tìm Ta thì các ngươi
sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta » (Gr 29:13); «Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta
ắt sẽ gặp Ta» (Cn 8:17).
2. Thái độ của các thượng tế và kinh sư
tại Giêrusalem
Các thượng tế và kinh sư Do Thái là những bậc thông
thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo các lẽ đạo của tôn giáo chân chính do
chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, họ đại diện cho những người có chính đạo.
Họ là những người có Kinh Thánh trong tay, nắm vững những kiến thức thần học,
họ nhận trách nhiệm rao giảng và bảo vệ chân lý của Thiên Chúa. Nhưng khi Ðức Giêsu
đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng giúp ích gì cho họ trong
việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Ðấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem, vì Kinh Thánh
cho biết như thế (x. Mt 2:4-6). Nhưng họ biết để mà biết, để mà
dạy người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải biết để áp dụng
vào đời sống, để đem ra thực hành, để lên đường tìm kiếm Đấng mà họ từng rao
giảng và trông mong. Vì thế, cái biết của họ trở nên vô ích cho họ.
Cũng vậy, rất nhiều Kitô hữu hiểu biết rất sâu xa về
Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác,
để rao giảng, chứ không phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế.
Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Ðức Giêsu nói: «Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra
thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Còn ai nghe những lời
Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà
trên cát» (Mt 7:24.26). «Mẹ tôi và
anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành» (Lc 8,21); «Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em
thực hành, thì thật phúc cho anh em» (Ga 13:17); «Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên
Chúa» (Lc 11:28). Dụ ngôn người gieo giống cho thấy những người nhận
được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế cũng giống như những
mảnh đất vệ đường, đầy đá sỏi, đầy bụi gai, khiến Lời Chúa không phát triển
được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến
Lời Chúa sinh hoa kết trái (x. Lc 8:11-15).
3. Bài học cho những ai đang theo chính
đạo
Câu chuyện về hai mẫu người trên cho chúng ta bài học
quí giá. Những người tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa cùng với những hiểu
biết về chân lý, công lý và tình thương trong tay, nên cứ an tâm và ngủ say
trong sự tin tưởng ấy, thì họ sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài và thực thi được
những giá trị là chân lý, công lý và tình thương kia. Vì Thiên Chúa, chân lý,
công lý và tình thương là những thực tại sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh
lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ có thể tìm kiếm, gặp được và sống với trong
từng thời điểm, chứ không thể nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp
Thiên Chúa, muốn sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không
ngừng lên đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm
kiếm, ngừng nỗ lực, thì những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự
ngừng nghỉ ấy sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa,
chân lý, công lý và tình thương ở trong tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang
xa rời Thiên Chúa và thường hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình
thương mà ta vô tình không biết. Thật vậy, những ai dù đang theo chính đạo, tự
hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang nắm được chân lý trong tay,
nhưng trong thực tế lại không sống đạo của mình, lại còn khinh chê người khác,
họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính mình như thánh Giacôbê từng cảnh cáo:
«Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ
đừng nghe suông mà lừa dối chính mình» (Gc 1:22). Những ai
chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình lại không
thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh Phaolô từng lo ngại: «Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục
tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ» (1Cr 9:27).
Chuyện các nhà chiêm tinh - mà truyền thống Giáo Hội
coi là đại diện cho người ngoại thuộc các tôn giáo khác trong các dân tộc - cho
thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân chính, nhưng nếu
người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ giúp họ gặp được
Ngài, nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý và tình thương thì họ
sẽ thực hiện được. Còn những người có tôn giáo chân chính, nhưng
lại thờ ơ với việc tìm kiếm Thiên Chúa, với việc thực thi chân lý, công lý và
tình thương, người ấy sẽ chẳng gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân
lý, công lý và tình thương. Tôn giáo chân chính được ví như một chiếc
xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi cần đến một cách an toàn, nhanh chóng và
bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như những loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi
hay không, không tùy thuộc vào loại xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến
nơi. Người không có xe, phải đi bộ mà quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi; còn
người có xe tốt và bảo đảm đi đâu cũng được, nhưng chính bản thân lại không
quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến được. Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn
trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của con người.
4. Thái độ của vua Hêrôđê, nhà cầm
quyền
Nói tới Hêrôđê, ta thấy ông có một nỗi sợ hãi khi
nghe các nhà chiêm tinh cho biết: Ðức Vua dân Do-thái mới sinh (x. Mt
2:1-2). Ông sợ hài nhi mới sinh ấy trong tương lai sẽ lật đổ vương
quyền của ông. Và dù biết hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ
khử. Như thế, tính tham quyền cố vị - ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội - có
thể làm người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im
lặng để mặc sự ác phát triển. Hêrôđê quyết tâm tìm giết con trẻ Giêsu bằng cách
sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi
trở xuống (x. Mt 2:16).
Tin Mừng không nói đến thái độ của các thượng tế và
kinh sư trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã nói trên, nhờ hiểu biết Kinh
Thánh, họ biết rõ Ðấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem (x. Mt 1:5-6), nhưng sự
hiểu biết ấy đối với họ là thứ hiểu biết chỉ để hiểu biết, chỉ để rao giảng,
chứ không phải để đi tìm, thậm chí không hề tạo cho họ chút lo lắng cho số phận
của Ðấng Cứu Thế hài nhi trước nguy hiểm do vua Hêrôđê gây ra. Ðối với họ, sinh
mạng của Ðấng Cứu Thế chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối với họ là sự an
toàn bản thân và giữ cho vững những chiếc ghế của họ trong tôn giáo Do Thái.
Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy đến bản thân, cho mất quan hệ tốt đẹp
với nhà cầm quyền? Im lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó không phải
là thái độ của những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ «sẵn sàng bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến» như Đức Giêsu mô tả
những ngôn sứ giả (x. Ga 10:12) thì họ cũng sẵn sàng im lặng bỏ
mặc Ðấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra, dẫu Ngài có bị nguy hiểm đến
tính mạng.
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do Cha sáng lập
là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, kẻ ngoại giáo
quyết tâm tìm kiếm Cha - là chân lý, công lý và tình thương - thì lại bảo đảm
gặp được Cha hơn là người có chính đạo mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con
an tâm say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ với những gì là chân lý, công lý và
tình thương. Xin cho con hiểu được rằng tôn giáo chỉ là con đường dẫn đến chân
lý chứ không phải là chân lý, và ai hết lòng tìm chân lý thì Cha sẽ soi sáng
giúp họ tìm ra con đường để đi và sẽ gặp được chân lý. Amen.
Nguyễn Chính Kết
http://1234chiase.blogspot.com/
_
No comments:
Post a Comment