Năm
A
Lễ Đêm Giáng Sinh
Những
nghịch lý trong biến cố Giáng Sinh
Video:
ĐỌC LỜI CHÚA
● Is 9,1-6: (5) Một
trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta.
● Tt 2,11-14: (12) Chúng
ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực,
công chính và đạo đức ở thế gian.
● TIN MỪNG: Lc 2,1-20
Đức
Giêsu sinh ra tại Bêlem
(1) Thời
ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên
hạ. (2) Đây là cuộc kiểm
tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. (3) Ai
nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (4) Bởi
thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem,
miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. (5) Ông
lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có
thai. (6) Khi hai người
đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. (7) Bà
sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông
bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
(8) Trong
vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn
vật. (9) Bỗng sứ thần
Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh
khiếp hãi hùng. (10) Nhưng
sứ thần bảo họ: «Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh
em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: (11) Hôm
nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng
Kitô Đức Chúa. (12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người:
anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ». (13) Bỗng
có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: (14) «Vinh
danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương».
(15) Khi
các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: «Nào
chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết». (16) Họ
liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt
nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã
được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn
chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà
Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi
các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều
họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
CHIA SẺ
Câu
hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức
Giêsu không sinh ra trong cảnh giàu sang, uy quyền cho xứng với địa vị Con
Thiên Chúa, mà lại sinh trong cảnh thấp hèn nhất của con người?
2. Toàn dân Do
Thái đều trông đợi Đấng Cứu Thế đến, thế mà khi Ngài đến, Ngài lại không báo
cho ai, kể cả những người chính thức đại diện cho dân, mà chỉ báo cho các mục
đồng, là những kẻ hèn kém nhất trong dân?
3. Những người
quyền thế trong dân về tôn giáo cũng như xã hội khi biết Đức Giêsu sinh ra tại
Bêlem, họ đã làm gì? phản ứng thế nào? Tại sao họ phản ứng như vậy? Não trạng
của họ đúng đắn và hợp với đường lối của Thiên Chúa không?
Suy
tư gợi ý:
1. Hoàn cảnh ra đời của Đức Giêsu
Theo thông lệ
đã bao đời, cứ 14 năm một lần, hoàng đế Rôma lại ra lệnh kiểm tra dân số trên
toàn đế quốc để có cơ sở thu thuế và tuyển lính. Mọi người dân đều phải về
nguyên quán mình để khai hộ khẩu. Vì Bêlem là nơi sinh trưởng của vua Đavít, tổ
tiên Giuse, nên ông phải đưa Maria vợ mình đang mang thai từ Nadarét về đấy
khai hộ khẩu. Hành trình từ Nadarét về Bêlem khoảng 80 dậm (#130
km). Vì phương tiện di chuyển quá đơn sơ, hai vợ chồng nghèo
phải vất vả lắm mới tới nơi. Nơi đất lạ, vì nghèo không tìm được chỗ trọ, hai
vợ chồng phải tá túc đỡ ở một chuồng súc vật ngoài đồng cỏ. Không may, Maria đã
đến ngày sinh con, hai vợ chồng nghèo đành phải sinh con ngay tại nơi trọ nghèo
nàn ấy.
2. Đức Giêsu chấp nhận cảnh thấp hèn
ngay từ khi sinh ra đời
Không có gì
nhục nhã và đau lòng cho bằng phải ra đời trong một chuồng súc vật, chẳng những
thiếu đủ mọi thứ mà còn dơ bẩn, hôi hám! Thử hỏi: cả 80 triệu dân Việt, một dân
tộc hiện đang bị xếp vào loại nghèo khổ nhất thế giới, đã có mấy người phải
sinh ra trong cảnh tệ hại như thế? Thế mà Đức Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng cao
sang, cũng chính là Vua Vũ Trụ, lại phải sinh ra trong hoàn cảnh như thế! Tuy
nhiên, tất cả mọi việc xảy ra đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa, đều
ứng nghiệm những gì các ngôn sứ đã loan báo mấy trăm năm trước về Đấng Cứu Thế.
Đang khi nhân
loại ai cũng tìm sự giàu sang, quyền thế, địa vị, danh dự cho mình và người
thân mình, thì Thiên Chúa Cha lại tìm sự nghèo khó, thấp hèn, nhục nhã cho
Người Con vô cùng yêu quí của mình. Suốt đời mình, Đức Giêsu cũng hành động
tương tự: đang khi nhân loại ai cũng tìm đủ cách đưa mình lên thật cao, thì Đức
Giêsu lại tìm đủ cách để tự hạ mình xuống thật thấp. Chính vì con người cứ muốn
tự đưa mình lên thật cao và sẵn sàng đè người khác xuống nên nhân loại mới phát
sinh ra muôn vàn giống tội và phải chịu biết bao khổ ải. Vì thế, muốn cứu chuộc
nhân loại, Đấng Cứu Thế phải hành động ngược lại khuynh hướng tội lỗi ấy là tự
hạ mình xuống thật thấp để nâng mọi người lên. Đúng như thánh Phaolô nói: «Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý
trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở
nên giàu có» (2Cr 8:9). Để cứu rỗi nhân
loại, nếu Thiên Chúa đã phải theo đường lối ấy, thì những kẻ muốn cộng tác với
Ngài trong công cuộc cứu rỗi, lẽ nào đi ngược lại đường lối ấy mà lại thành
công được? Nghĩa là nếu cứ thích mình được đề cao, thích sống trên đầu trên cổ
người khác, thì cứu rỗi được ai?
3. Những kẻ được loan báo về việc giáng
sinh của Đức Giêsu
Có sự nghịch lý
quá lớn trong việc Con Thiên Chúa vô cùng cao sang lại chấp nhận cảnh vô cùng
nghèo hèn để giáng sinh hầu cứu chuộc con người. Tuy nhiên vẫn còn một nghịch
lý rất lớn khác trong biến cố này. Khi Ngài sinh ra thì toàn dân Do Thái – kể
cả giới lãnh đạo Do Thái giáo (các thượng tế, tư tế, kinh sư, luật sĩ…)
– đang trông chờ và mong đợi Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã từng loan báo trước
đó mấy trăm năm. Mấy trăm năm toàn dân mong đợi, thế mà khi Đấng Cứu Thế đến,
Thiên Chúa đã chẳng sai các thiên sứ đến báo tin cho các vị chức sắc cao cấp
trong tôn giáo Do Thái cũng như nhà cầm quyền Do Thái, là những người chính
thức đại diện cho tuyển dân của Ngài. Mà chỉ báo tin cho các mục đồng, đại diện
cho hạng người hèn kém nhất trong tôn giáo và trong xã hội! Quả thật, dưới con
mắt loài người, Thiên Chúa tỏ ra «chẳng biết điều» tí nào! Ngài chẳng
biết cách xử sự theo kiểu loài người! Tại sao vậy?
Đối với Thiên
Chúa, kẻ có giá trị trước mắt Ngài là những tâm hồn đơn sơ chân thành, sẵn sàng
đón nhận chân lý, chứ không phải là những người có chức tước trong xã hội hay
tôn giáo, dù có cao cấp đến đâu! Hãy thử xét xem thái độ của các mục đồng và
những kẻ quyền thế thời đó. Các mục đồng khi được báo tin, thì hối hả đến và
thờ lạy Đấng Cứu Thế vừa sinh. Họ có thể tin ngay rằng đứa bé yếu đuối và nghèo
nàn kia, được sinh ra trong cái chuồng súc vật của họ, chính là Đấng Cứu Thế
muôn dân đang trông đợi. Cho dẫu chính họ, những kẻ thấp hèn nhất trong xã hội
và tôn giáo, cũng không bao giờ nỡ sinh con mình ở cái nơi dơ dáy thấp hèn ấy!
Tuy nhiên, cảnh thấp hèn ấy không phải là điều cản trở họ tin. Bài Tin Mừng cho
biết niềm tin và thái độ của họ sau khi gặp hài nhi Giêsu: «Các người chăn
chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa» (Lc
2:20).
Còn những kẻ
quyền thế trong xã hội và tôn giáo thì sao? Họ không thể tin được điều ấy. Não
trạng họ rất khác với các mục đồng! Làm sao họ có thể tin và chấp nhận được
Đấng Cứu Thế của toàn dân lại sinh ra thấp hèn như vậy! Mà dẫu họ có được báo
tin, họ cũng chẳng thèm đến với Đấng Cứu Thế thấp hèn và nghèo nàn ấy làm gì!
Người khác phải đến với họ, chứ làm gì có chuyện họ phải đến với người khác,
trừ trường hợp người khác đó giàu sang hay có địa vị cao hơn họ! Cứ xem phản
ứng của họ thì biết: Khi được các nhà chiêm tinh phương Đông tới báo tin Đấng
Cứu Thế đã sinh ra thì vua Hêrôđê và những nhà lãnh đạo tôn giáo đã làm gì?
Hêrôđê thì cho quân đi tìm giết con trẻ Giêsu ngay, bất chấp phải giết oan bao
đứa trẻ khác. Các vị thượng tế và kinh sư thì cũng chỉ ngồi nhà chờ các nhà
chiêm tinh đến cho biết kết quả, mặc dù biết rất rõ Đấng Cứu Thế phải sinh ra
tại Bêlem. Và khi các nhà chiêm tinh không trở lại, họ cũng bỏ qua luôn.
4. Hai thái độ khác nhau
Truyền thống
Kitô giáo cho rằng Tổng lãnh Thiên thần Luxifer vì không chấp nhận được Con
Thiên Chúa nhập thể làm người, nghĩa là Thiên Chúa mà lại sống trong thân phận
hèn kém hơn mình, nên đã phản loạn chống lại Thiên Chúa. Não trạng đó cũng là
não trạng của rất nhiều người, kể cả các Kitô hữu bình dân và cao cấp! Mặc dù
Đức Giêsu làm nhiều phép lạ tỏ tường, được dân chúng tin theo rất đông, nhưng
giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái xưa không thể chấp nhận được Ngài là Đấng Cứu
Thế. Tại sao? Vì họ thấy Ngài là người nghèo hèn (x. Mt 8:20),
thất học (x. Ga 7:15), lại nói và làm rất
nhiều điều ngược lại quan niệm của họ, như lỗi luật ngày sábát (x.
Mt 12:1-14; Lc 6:6-11; ...), không chịu ăn chay (x.
Mt 9:14), ăn không rửa tay (x.
Mt 15:1-2; Lc 11:38), giao thiệp với những hạng người tội lỗi
(x. Mt 9:10-11; Lc 5:29-30), v.v… Họ cho
rằng họ là chân lý, nên ai nói hay hành động khác với họ đều sai. Nếu những
người ấy có quyền phép thì đó là quyền phép ma quỷ (x.
Mt 9:34; 12:24).
Đối với họ, chỉ
những điều mà người có uy quyền trong tôn giáo nói mới là chân lý thôi! Chân lý
không thể phát xuất từ môi miệng những hạng bình dân, thấp kém trong xã hội hay
tôn giáo được. Do đó, khi các ngôn sứ xuất hiện – thường xuất thân từ giới bình
dân, nghèo hèn – thì đều bị họ chê bai và ném đá vì những lời nói mà họ cho là
ngang ngược (x. Mt 23:37; Lc 6:23).
Họ chỉ ca tụng và ưu đãi những ngôn sứ giả là những người có uy quyền, lại nói
vừa lòng họ, lọt lỗ tai họ (x. Lc 6:26).
Cũng vậy, khi Đức Giêsu đến, những mặc khải mới về chân lý của Ngài không sao
lọt tai họ được, nên họ phải tìm cách trừ khử cho bằng được!
Ngày nay, con
người – kể cả các tín đồ trong mọi tôn giáo – vẫn thường có não trạng như thế.
Người có thế giá trong tôn giáo nói bất cứ điều gì cũng được họ cho là đúng, là
có giá trị, cho dù họ thấy có gì đó không hợp lý. Cũng có khi họ mù quáng đến
độ không thể thấy được sự bất hợp lý trong những lời nói đó. Còn những người
bình dân, thấp hèn mà nói, thì dù có hợp lý đến đâu, cũng đều vô giá trị. Chính
vì thế, nếu thời nay những ngôn sứ của Thiên Chúa có đến, chắc chắn cũng các vị
cũng phải đồng số phận hẩm hiu với những ngôn sứ các thời đại trước thôi! Và
dẫu chính Đức Giêsu có đến lần nữa, Ngài cũng sẽ bị đối xử tương tự. Ngài lúc
nào cũng vẫn là «viên đá vấp phạm» (x.
Rm 9:33; 1Pr 2:8) cho nhiều người. Nhưng phúc thay những ai không
vấp phạm vì Ngài! (x. Mt 11:6; Lc 7:23).
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin
cho con nhận thức rằng người được Thiên Chúa sai đến, dù có thấp hèn đến đâu
cũng vẫn là người của Thiên Chúa. Xin cho con ý thức được rằng chân lý dù được
phát biểu bởi trẻ con hay người thấp hèn dốt nát cũng vẫn là chân lý. Còn sai
lầm dù được phát biểu bởi kẻ cao sang quyền thế cũng vẫn là sai lầm. Đừng để
con đồng hóa lý của kẻ mạnh, kẻ có quyền với chính chân lý. Để nhờ đó, con có
thể nhận ra Cha nơi những anh em nghèo hèn chung quanh con, và nhận ra chân lý
dẫu được phát biểu bởi những người mà con cho thấp kém. Amen.
Nguyễn Chính Kết
http://1234chiase.blogspot.com/
No comments:
Post a Comment