Năm
A
Chúa Nhật Thứ 3 Mùa Vọng
(Bài 2)
Sống Thời Tân Ước,
cần sống theo Tinh thần
Cách mạng Tôn giáo
của Đức Giêsu
Video : https://www.youtube.com/watch?v=n6DvdWsvW6I&list=PLV5k4sBhQLw5lOD3zUW35x-n9Aw6wUmo-
Ðọc Lời Chúa
● Is 35,1-6a.10: (4) Hãy
nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi;
sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ
đến cứu anh em. (5) Bấy giờ mắt người mù mở
ra, tai người điếc nghe được. (6) Bấy giờ kẻ què sẽ
nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa
mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
● Gc 5,7-10:
(7) Thưa
anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông,
họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu
mùa lẫn mưa cuối mùa. (8) Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày
Chúa quang lâm đã gần tới.
● TIN
MỪNG: Mt
11,2-11
Câu
hỏi của ông Gioan Tẩy Giả
và câu trả lời của Ðức Giêsu
(//Lc 7:18-28)
(2) Ông
Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Ðức Kitô làm, liền sai môn đệ
đến hỏi Người rằng: (3) Thưa
Thầy, Thầy có thật là Ðấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai
khác? (4) Ðức Giêsu trả lời:
Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: (5) Người
mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết
sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, (6) và phúc
thay người nào không vấp ngã vì tôi.
(7) Họ đi rồi, Ðức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? (8) Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. (9) Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Ðúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. (10) Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.
(11) Tôi
nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao
trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao
trọng hơn ông.
Chia sẻ
Câu
hỏi gợi ý:
1. Tại sao Gioan Tẩy Giả
lại sai môn đệ mình tới hỏi Ðức Giêsu xem Ngài có phải là Ðấng Cứu Thế không?
Theo ông nghĩ, nếu Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế, là Vua Do Thái, thì ông sẽ đóng
vai trò gì bên cạnh Ngài?
2. Ðức Giêsu đến có đúng
theo sự suy nghĩ và lòng mong ước của Gioan Tẩy Giả và của những người Do Thái
thời đó không? Nếu Ngài đến lần thứ hai thì liệu có đúng theo sự suy nghĩ và
lòng mong ước của chúng ta không?
3.Tại sao khi Ðức Giêsu
đến lại có biết bao người vấp phạm vì Ngài? Vì họ thiếu thiện chí, hay vì họ
chấp nhất vào nguyên tắc? Có thể rút kinh nghiệm lần Ngài đến trước để khi Ngài
đến lần thứ hai ta khỏi vấp phạm vì Ngài không?
Suy
niệm
1.
Thắc mắc của Gioan Tẩy Giả
Gioan Tẩy Giả
là người được Thiên Chúa kêu gọi làm một ngôn sứ, đồng thời làm vị Tiền Hô để
dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến. Ông rất ý thức điều ấy, và đã hoàn thành nhiệm
vụ ấy một cách hoàn hảo. Chính vì thế, ông đã bị ngồi tù do dám tố cáo những
sai trái của chính quyền đương thời là vua Hêrốt. Tình trạng khó khăn và tuyệt
vọng trong tù dễ làm người ta xuống tinh thần, vì thế, đức tin của Gioan vào
Ðức Giêsu phần nào bị thử thách.
Có thể lúc đó
ông tự hỏi: Nếu Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế mà ông có sứ mạng tiền hô cho Ngài,
thì tại sao ông lại phải ngồi tù thế này? Nếu Ngài là Ðấng Cứu Thế, thì ắt hẳn
Thiên Chúa phải để ông ở ngoài hầu hợp tác với Ngài thiết lập triều đại mới
chứ! Ông sẽ phải là cánh tay mặt của Ngài chứ! Chắc chắn Gioan cũng quan niệm
như mọi người Do Thái khác rằng Ðấng Cứu Thế sẽ giải phóng dân Do Thái và sẽ
trở thành một vị Hoàng Ðế cai trị toàn cầu. Vì thế, khi Ngài đã bắt đầu ra mặt
mà ông vẫn còn phải ngồi tù thế này thì quả là khó hiểu? Do đó, ông đã sai môn
đệ của ông đến gặp Ðức Giêsu để hỏi cho rõ. Và họ đã đến gặp Ngài.
2. Những điều ứng nghiệm nơi Ðức Giêsu,
Ðấng Cứu Thế
Ðức Giêsu đã
không trả lời trực tiếp bằng cách xác định mình chính là Ðấng Cứu Thế, nhưng
trả lời gián tiếp bằng những dấu hiệu mà trước đó khoảng 700 năm ngôn sứ Isaia
đã tiên báo về thời đại của Ðấng Cứu Thế: «Người mù xem thấy, kẻ què
được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo
được nghe Tin Mừng» (xem Is 26,19; 29,18-19; 35,5-6a; 61,1).
Ðó là những điều mà Ðức Giêsu đã dùng quyền năng của mình thực hiện trước mắt mọi
người.
Thử đặt mình
vào địa vị Gioan Tẩy giả và người Do Thái thời ấy xem, ta có thể tin được Ngài
là Ðấng Cứu Thế không, khi mà đầu óc ta cứ nghĩ rằng Ngài sẽ giải phóng đất
nước Do Thái bằng binh hùng tướng mạnh, bằng chính trị và quân sự? Thế mà hiện
tại trước mắt, Ngài chỉ là một thầy đạo không một tấc sắt trong tay! Làm sao
tin được Ngài là Ðấng ấy, nhất là khi thấy Ngài bị nộp và bị đem đi giết như
một tội nhân?
Chính vì thế,
ngay từ lúc này Ngài đã nói: Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi. Liệu câu
nói ấy có ứng cho chính chúng ta khi Ngài trở lại không? Nếu Ngài trở lại theo
một cách thức thật bất ngờ, không đúng như cách ta vẫn thường nghĩ, liệu ta có
vấp ngã vì Ngài không? Vì nếu Ngài trở lại đúng theo cách ta thường nghĩ, thì
lời Ngài tiên báo là sẽ đến «như kẻ trộm»
đâu còn đúng nữa? Vậy, ta cần phải tỉnh táo khi Ngài đến để khỏi vấp ngã vì
Ngài.
3. Ðức Giêsu đến để thực hiện một cuộc
cách mạng tôn giáo
Tôi e rằng khi
Ngài đến lần thứ hai, rất nhiều người sẽ vấp ngã và xúc phạm đến Ngài như lần
Ngài đến trước, vì Ngài sẽ không đến theo như quan niệm của họ, nhất là về mặt
tư tưởng và giáo thuyết. Lý do:
Nhân loại luôn
luôn tiến hóa và đổi mới. Vì thế, các tôn giáo - vốn là phương tiện phục vụ con
người, dẫn con người đến với Thiên Chúa - cũng phải thay đổi theo để phục vụ
con người một cách phù hợp và hữu hiệu hơn. Hiện nay, nhân loại đã bước sang
thời đại internet, toàn cầu hóa, với tinh thần khoa học thực nghiệm, kỹ thuật
hết sức tân tiến. Về mặt chính trị, nhân loại không còn chấp nhận được những
chế độ độc tài, bưng bít thông tin, tự do hà hiếp bóc lột dân chúng. Những quan
niệm tôn giáo cũ có thể thích hợp với nhân loại cũ, thời đại cũ, với những quan
niệm khoa học cũ. Nay nhân loại đã đổi mới, những quan niệm và thể chế tôn giáo
không thay đổi để phù hợp sẽ bị đào thải. «Không
ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra
và bầu cũng hư» (Lc 5,37). Ðương nhiên
trong tôn giáo có những điều cốt tủy không bao giờ thay đổi được. Vấn đề quan
trọng là phân biệt cái nào có thể thay đổi và cái nào là cốt lõi không thể thay
đổi được.
Tôn giáo và
luật lệ của tôn giáo là một cái gì linh thiêng, thần thánh, được hiểu là do
Thiên Chúa thiết lập, được vĩnh cửu hóa và tuyệt đối hóa bằng những lời chắc
nịch trong Kinh Thánh (chẳng hạn: St 9,12; Xh 12,14; 32,13b;
Ðnl 29,28; 1 V 8,13; Tv 98,5; và vô số câu khác). Vậy thì con
người, nào ai dám thay đổi? Chỉ có những Ðấng Thiên Sai như Ðức Giêsu mới có thể
làm chuyện ấy. Chính Ðức Giêsu đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại về tôn
giáo. Và cũng chính vì làm cuộc cách mạng ấy Ngài mới bị giết bởi tay các nhà
lãnh đạo tôn giáo cũ. Thế là, như ta đã biết, vô số người đã vì Ngài mà vấp
ngã!
4. Cuộc cách mạng tôn giáo của Ðức Giêsu
Tôn giáo Do
Thái do Thiên Chúa thiết lập nhưng do Môsê hình thành. Những luật lệ do Môsê
ban hành được coi là linh thánh và vĩnh cửu, vì được hiểu là luật của Thiên
Chúa. Nhưng thật ra luật ấy chỉ phù hợp với trình độ văn hóa và tâm linh của
dân Do Thái thời thượng cổ. Luật ấy được xây dựng trên sự sợ hãi của dân chúng.
Tương tự như khi con người còn là một đứa trẻ, muốn nó sống tốt thì không thể
chỉ dùng lời khuyên và trông chờ vào sự hiểu biết của nó mà được. Lời khuyên
hay mệnh lệnh phải đi đôi với roi vọt. Ðối với một đứa trẻ, chỉ cần nó sợ roi
để làm theo những mệnh lệnh của người lớn là đã đạt yêu cầu, và chỉ cần như thế
nó đã được coi là một đứa trẻ ngoan. Tôn giáo thời Cựu Ước ứng với phương pháp
giáo dục dành cho trẻ con, không thể trông mong vào sự ý thức, hiểu biết, hay tình
yêu của con người được. Tiêu chuẩn của sự công chính vào thời này là chỉ cần
giữ luật cho đúng là được. Và người Pharisiêu thời Ðức Giêsu chính là mẫu người
được coi là trọn hảo của thời Cựu Ước. Không ai còn có thể giữ luật trọn vẹn
hơn họ!
Nhưng từ Môsê
đến Ðức Giêsu, dân Do Thái đã trải qua khoảng 1250 năm, trình độ văn hóa và tâm
linh của họ đã thay đổi. Họ đã thoát khỏi giai đoạn tạm gọi là trẻ con của họ
để bước sang một giai đoạn trưởng thành hơn. Do đó, tôn giáo cũng phải thay đổi
để thích hợp với trình độ mới của họ, và chính Ðức Giêsu là người có sứ mạng
thực hiện sự thay đổi ấy. Tôn giáo mới không còn được xây dựng trên sự sợ
hãi nữa, mà xây dựng trên nền tảng tình yêu. Dân Do Thái hay nhân loại
lúc này được so sánh với một con người đã bước vào tuổi thanh niên. Cha mẹ
không còn giáo dục anh chàng theo kiểu roi vọt nữa, mà mong đợi nơi anh sự ý
thức tự giác và tình yêu. Lúc này, nếu anh học hành hay làm việc chỉ vì sợ cha
mẹ đánh đòn, thì anh không còn được coi là hay là tốt nữa, mà phải do một động
lực khác thúc đẩy: chẳng hạn do biết tự lo lắng cho tương lai, do biết yêu
thương và làm hài lòng cha mẹ, muốn làm nở mày nở mặt cho gia tộc. Vì thế, cách
sống hay giữ đạo vị luật của người Pharisiêu không còn được Ðức Giêsu coi là
công chính nữa: «Thầy bảo cho anh em
biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì
sẽ chẳng được vào Nước Trời» (Mt 5,20).
Những cuộc cách
mạng vĩ đại về tôn giáo như Ðức Giêsu đã từng thực hiện chắc chắn thời nào cũng
bị những người đương thời chống đối vì chưa nhận ra sự hợp lý của nó. Họ còn
chấp vào những hiểu biết cũ, quan niệm cũ, nguyên tắc cũ đã được nhập tâm từ
nhỏ, và được coi là những chân lý bất di bất dịch. Họ cảm thấy cần bảo vệ những
chân lý ấy. Chính vì thế rất nhiều người vấp phạm khi Ngài đưa ra những quan
niệm mới, nguyên tắc mới.
Ðể nói lên sự
ưu việt của thời hậu cách mạng do Ðức Giêsu, Ngài đã đưa ra một thí dụ điển
hình: «Tôi nói thật với anh em: trong số
phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy
nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông» (Mt
11:11). Gioan Tẩy Giả là mẫu người công chính của Cựu
Ước, sự công chính của ông không thể sánh ngang với sự công chính của thời Tân
Ước được. Thật vậy, về tinh thần và phong cách sống đạo, giữa Gioan Tẩy giả và
Ðức Giêsu, giữa các môn đệ của hai vị có sự khác biệt rõ rệt. Ðiển hình như: «Các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Ðức Giêsu
rằng: “Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không
ăn chay?”» (Mt 9,14; Mc 2,18).
Vậy, chúng ta
hãy tỉnh táo để khi Ðức Giêsu đến lần thứ hai, với những bất ngờ không dè trước
được, chúng ta không vấp phạm vì Ngài: «Phúc
thay người nào không vấp ngã vì tôi» (Mt 11,6).
Cầu nguyện
Lạy Cha, lần
trước Ðức Giêsu đến đã có biết bao người vấp phạm vì Ngài. Xin cho con rút ra
được những kinh nghiệm và bài học quí báu từ những sự kiện trong Tin Mừng để
khi Ngài đến lần thứ hai, chính con nhờ đó sẽ không vấp phạm vì Ngài. Xin giúp
con sáng suốt nhận ra kinh nghiệm và bài học ấy. Amen.
Nguyễn Chính Kết
http://1234chiase.blogspot.com/
_______________
Mời trở lại bài 1:
Hãy sống theo quan niệm mới của Đức Giêsu
https://cstm-nam-a.blogspot.com/2022/11/a-vong-03a.html
No comments:
Post a Comment