Năm
A
Chúa Nhật 4 Mùa Chay
(Bài 1)
Đức
ái là luật cao trọng nhất phải tuân giữ
Video: https://www.youtube.com/watch?v=i2IJ8TuuIWg&list=PLV5k4sBhQLw5lOD3zUW35x-n9Aw6wUmo-
● 1Sm
16,1b.6-7.10-13a: (7) Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người
phàm, họ chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thấy tận đáy lòng.
● Ep 5,8-14:
(8) Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; (9) mà ánh sáng
đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. (10)
Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa.
● TIN MỪNG: Ga
9,1-41 (hay Ga 9,1.6-9.13-16.34-38)
Đức
Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh
(1) Ði ngang qua, Ðức Giêsu nhìn thấy một người mù từ
thuở mới sinh. (2) Các môn
đệ hỏi Người: «Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh
ta hay cha mẹ anh ta?» (3) Ðức Giêsu trả lời: «Không phải anh ta, cũng chẳng
phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên
Chúa được tỏ hiện nơi anh. (4) Chúng ta phải làm những việc của Ðấng
đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. (5)
Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian».
(6) Nói xong, Ðức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn
thành bùn và xức vào mắt người mù, (7) rồi bảo anh ta: «Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa». Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì
nhìn thấy được. (8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia
thường thấy anh ta ăn xin mới nói: «Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó
sao?» (9) Có người nói: «Chính
hắn đó!» Kẻ khác lại nói rằng: «Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn
đó thôi!» Còn anh ta thì quả quyết: «Chính tôi đây!» (10) Người ta liền hỏi anh: «Vậy, làm sao mắt
anh lại mở ra được như thế?» (11) Anh ta trả lời: «Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt
tôi, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa”. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn
thấy được». (12) Họ lại
hỏi anh: «Ông ấy đâu?» Anh ta đáp: «Tôi không biết».
(13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người
Pharisêu. (14) Nhưng
ngày Ðức Giêsu trộn chút bùn và làm mắt anh mở ra lại là ngày sabát. (15) Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao
anh nhìn thấy được. Anh trả lời: «Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và
tôi nhìn thấy». (16) Trong
nhóm Pharisêu, người thì nói: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được,
vì không giữ ngày sabát»; kẻ thì bảo: «Một người tội lỗi sao có thể làm được
những dấu lạ như vậy?» Thế là họ đâm ra chia rẽ. (17) Họ lại hỏi người mù: «Còn anh, anh nghĩ gì về người
đã mở mắt cho anh?» Anh đáp: «Người là một vị ngôn sứ!»
(18) Người Dothái không tin là trước đây anh bị mù mà nay
nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. (19) Họ hỏi: «Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà
nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?» (20) Cha mẹ anh đáp: «Chúng tôi biết nó là con chúng tôi,
nó bị mù từ khi mới sinh. (21) Còn bây giờ làm sao nó thấy được,
chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay.
Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã lớn khôn rồi, tự nó nói về mình được.» (22) Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Dothái. Thật vậy,
người Dothái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Ðức
Giêsu là Ðấng Kitô. (23) Vì thế,
cha mẹ anh mới nói: «Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó». (24) Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và
bảo: «Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người
tội lỗi». (25) Anh ta
đáp: «Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết
một điều: Trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!» (26) Họ mới nói với anh: «Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông
ấy đã mở mắt cho anh thế nào?» (27) Anh trả lời: «Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông
vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các
ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?» (28) Họ liền mắng nhiếc anh: «Có mày mới là môn đệ của
ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê. (29) Chúng ta
biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông ấy ở
đâu mà đến». (30) Anh đáp: «Kể
cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là
người đã mở mắt cho tôi! (31) Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm
lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì
Người nhậm lời kẻ ấy. (32) Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt
cho người mù từ lúc mới sinh. (33) Nếu không phải là người bởi Thiên
Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì». (34) Họ đối lại: «Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà
mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?» Rồi họ trục xuất anh.
(35) Ðức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp
lại anh, Người hỏi: «Anh có tin vào Con Người không?» (36) Anh đáp: «Thưa Ngài, Ðấng ấy là ai để tôi tin?» (37) Ðức Giêsu trả lời: «Anh đã thấy Người. Chính Người
đang nói với anh đây». (38) Anh nói: «Thưa Ngài, tôi tin». Rồi anh sấp mình
xuống trước mặt Người.
(39) Ðức Giêsu nói: «Tôi đến thế gian này chính là để xét
xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!» (40) Những người Pharisêu đang đứng ở đó với Ðức Giêsu
nghe vậy, liền lên tiếng: «Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?» (41) Ðức Giêsu bảo họ: «Nếu các ông đui mù, thì các ông
đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'Chúng tôi thấy', nên tội các
ông vẫn còn!»
II. CHIA SẺ
Câu
hỏi gợi ý:
1.
Luật Môsê, cũng là luật của Thiên Chúa, cấm rất ngặt không được làm việc
ngày sabát. Ai lỗi luật có thể bị tử hình (x. Xh 31,14-15; 35,2). Vậy tại sao
Đức Giêsu lại chữa bệnh rất nhiều lần trong ngày sabát bất chấp luật như thế?
Ngài làm gương mù hay gương sáng cho chúng ta vậy?
2.
Nếu có trường hợp thi hành một điều luật nào đó trong luật Chúa hay luật
Giáo Hội mà đi ngược lại đòi hỏi của đức ái, tức luật yêu thương của Đức Giêsu,
thì ta phải làm theo luật nào?
Suy
tư gợi ý:
1. Quan niệm khác nhau giữa người
Pharisêu và Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng này, ta thấy hai não trạng hay hai
cách nhìn khác nhau giữa Đức Giêsu và người Pharisêu. Một đằng nhìn thấy con người
để yêu thương, và còn một đằng chỉ nhìn thấy lề luật, nguyên tắc để tuân giữ.
Nghĩa là một đằng quan trọng hóa con người, còn một đằng quan trọng hóa lề
luật. Đức Giêsu khi thấy một người mù cần được giúp đỡ, thì Ngài động lòng thương
và ra tay cứu giúp, bất chấp hôm đó là ngày sabát, là ngày mà luật Môsê cấm
ngặt không được làm việc. Như vậy, Ngài coi việc cứu người quan trọng hơn việc
giữ luật sabát. Còn người Pharisêu coi việc giữ luật sabát quan trọng hơn việc
cứu người. Theo họ, thà để người khác bị mù, bị thiệt hại, bị chết, còn hơn là
vi phạm lề luật của Thiên Chúa.
2. Hai cung cách giữ đạo khác nhau
Hai thái độ ngược nhau đó luôn luôn tồn tại trong
cách giữ đạo của các tín đồ trong mọi tôn giáo. Thái độ nào cũng có những lý do
chính đáng của nó. Thái độ nào cũng đúng, nhưng đúng ở những mức độ tâm linh
cao thấp khác nhau.
Theo quan điểm của người Pharisêu thì luật giữ ngày
sabát là luật Môsê, cũng là luật của Thiên Chúa. Vì thế, người công chính phải
tuân giữ lề luật, càng công chính thì càng phải giữ luật một cách chi tiết. Do đó,
khi thấy Đức Giêsu chữa bệnh trong ngày sabát, họ bàn thảo với nhau: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa
được, vì không giữ ngày sabát» (Ga 9,16). Họ quan
niệm: nếu Đức Giêsu là người của Thiên Chúa thì tất nhiên Ngài phải giữ luật
Môsê, thậm chí còn nghiêm chỉnh hơn chính họ nữa. Quan điểm của họ quả hết sức
hợp lý vì nó hoàn toàn được xây dựng trên rất nhiều đoạn Kinh Thánh khuyên người
ta phải giữ luật (x. Đnl 27,26; 30,10; Gs 22,5; 23,6; 1V 2,3; v.v…). Vì thế, đối
với họ, việc giữ luật tôn giáo là vô cùng quan trọng. Do đó, nếu có sự xung đột
giữa một bên là giữ luật Chúa, một bên là đòi hỏi của lương tâm và đức ái, thì
phải ưu tiên cho việc giữ lề luật.
Nhưng quan điểm của Đức Giêsu thì khác hẳn. Đành rằng
luật Môsê là luật của Thiên Chúa, nhưng khi có xung đột giữa luật của Môsê với
những đòi hỏi của tình yêu hay đức ái, thì phải ưu tiên tuân theo luật của đức
ái. Nếu ngày sabát mà tình yêu hay đức ái đòi buộc phải làm việc, phải chữa
bệnh, thì phải chấp nhận lỗi luật sabát mới đúng với ý Thiên Chúa. Đức Giêsu đưa
ra trường hợp rất cụ thể khi chữa bệnh cho một người phụ nữ bị quỷ ám: «Còn bà này, là con cháu ông Ápraham, bị
Xatan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích
đó trong ngày sabát sao?» (x. Lc 13,10-17).
Vì thế, cho dù lỗi luật sabát có thể dẫn đến tử hình
hoặc bị khai trừ (x. Xh 31:14-15; 35:2), nhưng Đức Giêsu hoặc các tông đồ
đã nhiều lần lỗi luật sabát vì lý do bác ái hay vì một lý do chính đáng khác.
Chẳng hạn, các môn đệ Đức Giêsu bứt bông lúa mì (x. Mt 12,1-8; Mc 2,23-28;
Lc 6,1-5); Đức Giêsu chữa người bị bại tay (x. Mt
12,9-14; Mc 3,1-6; Lc 6,6-11); chữa một phụ nữ còng lưng (Lc
13,10-17); chữa người mắc bệnh phù thũng (Lc
14,1-6); chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bếtdatha (Ga
5,1-18); chữa một người mù từ thuở mới sinh (Ga
9,1-41), tất cả đều được làm vào ngày sabát. Ngài đã bị các kinh sư
và luật sĩ cảnh cáo nhiều lần về việc Ngài lỗi luật ngày sabát, và tìm cách
giết Ngài, nhưng Ngài vẫn bất chấp, vẫn cứ lỗi luật sabát vì lý do đức ái, và
bất chấp nguy hiểm. Ngài không hề khuyên bảo người bệnh hãy đến với Ngài vào
ngày khác thì Ngài mới chữa bệnh cho. Cũng không bảo họ đừng đến với Ngài vào
ngày sabát để Ngài giữ luật sabát cho trọn vẹn. Đó chẳng phải là một mẫu gương để
chúng ta noi theo sao, hỡi những người theo Đức Giêsu và những kẻ tự hào mình
theo Ngài?
3. Tình yêu hay đức ái ví như hiến pháp,
luật lệ khác ví như các khoản luật
Điều ấy cho thấy luật bác ái cao trọng hơn bất cứ
loại luật nào, dù là luật thành văn của Thiên Chúa như luật Môsê, hay luật của
Giáo Hội và những luật lệ do con người lập ra. Vì trong Kitô giáo, đức ái được
ví như hiến pháp, còn tất cả những luật lệ thành văn khác đều chỉ được ví như
luật pháp mà thôi. Luật pháp phải thể hiện tinh thần của hiến pháp, giúp hiến
pháp được thực hiện trong những trường hợp cụ thể hơn trong đời sống. Vì thế,
trường hợp nào mà thi hành một điều khoản của luật pháp trở thành vi phạm hiến
pháp thì trường hợp ấy, ta không nên thi hành khoản luật ấy. Nếu ai vẫn cứ thi
hành khoản luật ấy, thì người ấy vi phạm hiến pháp. Nếu vì muốn thi hành cho đúng
hiến pháp mà đành phải vi phạm một điều khoản trong luật pháp, thì việc vi phạm
đó không còn là vi phạm nữa. Vì mục đích của luật pháp là để thực hiện hiến
pháp, chứ không ngược lại.
Đức ái chính là hiến pháp, là luật tối thượng bao
trùm tất cả mọi khoản luật, nên thánh Phaolô đã dám quả quyết: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8;
x. 18,10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau,
như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2). Thánh
Giacôbê thì cho đức bác ái là luật cao nhất của Kinh Thánh: «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). Lời
tuyên bố của hai vị thánh này thật rõ ràng. Thánh Âu Tinh cũng nói: «Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm» (Ama et
fac quod vis).
Luật Môsê là luật của Thiên Chúa, được chính Thiên
Chúa truyền qua Môsê. Thế mà khi có sự xung đột giữa luật Môsê và đức ái hay điều
lương tâm đòi buộc, thì Đức Giêsu đã chấp nhận lỗi luật Môsê (tức luật
Chúa) chứ không chấp nhận lỗi đức ái hay lỗi luật lương tâm. Hiện nay, luật
của Đức Giêsu đã thay thế luật Môsê, và luật của Ngài là luật yêu thương, nên
yêu thương chính là luật tối thượng, đúng như thánh Giacôbê đã nói ở trên (Gc 2,8). Luật
Môsê là luật của Thiên Chúa mà còn vậy, huống chi những luật do con người lập
ra. Ai coi việc thi hành đức ái nhẹ hơn một khoản luật nào đó do con người lập
ra, thì câu sau đây của Đức Giêsu đáng để cho họ suy nghĩ: «Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn
lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý
chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân» (Mt 15,8-9). Vậy,
chúng ta phải theo lập trường của Đức Giêsu hay của người Pharisêu?
4. Mục đích của lề luật là hình thành
đức ái trong lòng con người
Cũng như một cây non cần phải buộc vào một cọc thẳng để
cây mọc thẳng lên. Nhưng khi cây đã mọc thẳng và các mô mộc trong cây đã cứng
cát rồi, thì người ta bỏ cọc đi. Luật lệ giống như cái cọc thẳng ấy để giúp cho
tâm linh còn non yếu mọc thẳng lên. Nó có nhiệm vụ hình thành đức ái ở trong
ta. Khi đức ái của ta đã được hình thành và trở nên vững chắc, thì ta phải hành
động theo sự đòi hỏi của đức ái đã được hình thành ấy ở trong ta. Lúc ấy lề
luật đã đóng hết vai trò và nhiệm vụ của nó.
Thật vậy, theo thánh Phaolô, lề luật được lập nên
không phải cho người công chính, mà cho người tội lỗi tức chưa hiểu biết được
cốt tủy của sự công chính (x. 1Tm 1,8-10). Ngài cũng nói: «Không người phàm nào được nhìn nhận là công
chính vì đã làm những gì Luật dạy. Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được
thể hiện mà không cần đến Luật Môsê» (Rm 3,20-21; x. Gl 3,11). Sự công
chính không hệ tại việc giữ luật lệ: «Nếu
người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích»
(Gl 2,21); mà do việc có thực hành đức ái hay tình thương đích thực ở
trong lòng hay không. Vì sự công chính hay thánh thiện hệ tại việc mình có trở
nên giống Thiên Chúa hay không, có Thiên Chúa ở trong mình hay không. Mà Thiên
Chúa tự bản chất chính là tình yêu, là đức ái (x. 1Ga 4,8.16).
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con hiểu được sự cần thiết của lề
luật trong sự phát triển tâm linh. Nhưng cũng cho con hiểu được sự giới hạn và
vai trò nhất thời của lề luật. Mục đích của lề luật chính là hình thành đức ái
hay tình yêu đích thực ở trong con. Nếu giữ lề luật trọn hảo nhưng đức ái chân
thật vẫn không hình thành được trong lòng con, thì việc giữ luật ấy có ích lợi
gì? Xin Cha cho con hiểu được điều ấy.
Nguyễn Chính Kết
http://1234chiase.blogspot.com/
No comments:
Post a Comment