Năm
A
Chúa Nhật thứ 3 Phục Sinh
(Bài 1)
Nhận
ra Thiên Chúa trong mọi người,
rồi yêu mến và phụng sự
Ngài trong mọi người
Video: https://www.youtube.com/watch?v=irvlNXoJKtc&list=PLV5k4sBhQLw5lOD3zUW35x-n9Aw6wUmo-
● Cv 2:14.22-33:
(23) Theo kế hoạch Thiên Chúa đã
định và biết trước, Ðức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng
đinh Người vào thập giá mà giết đi. (24) Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi
những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người
mãi.
● 1Pr 1:17-21: (21) Nhờ Ðức Ki-tô, anh em tin vào Thiên Chúa, Ðấng
đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt
niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.
● TIN MừNG: Lc
24:13-35
Ðức
Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau
(13) Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi
đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. (14) Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới
xảy ra. (15) Ðang lúc
họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Ðức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (17) Người hỏi họ: Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau
về chuyện gì vậy? Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
(18) Một trong hai người tên là Cơlêôpát trả lời: Chắc
ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã
xảy ra trong thành mấy bữa nay. (19) Ðức Giêsu hỏi: Chuyện gì vậy? Họ thưa: Chuyện ông
Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói
trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. (20) Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp
Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính
Người là Ðấng sẽ cứu chuộc Ítraen. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là
ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra,
cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các
bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy
thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. (24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự
việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.
(25) Bấy giờ Ðức Giêsu nói với hai ông rằng: Các anh
chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! (26) Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế,
rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (27) Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người
giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
(28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Ðức Giêsu làm như còn
phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép
Người rằng: Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.
Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. (30) Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời
chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người
lại biến mất. (32) Họ mới
bảo nhau: Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng
ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?
(33) Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem,
gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. (34) Những người này bảo hai ông: Chúa trỗi dậy thật rồi,
và đã hiện ra với ông Simôn. (35) Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc
đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
II. CHIA SẺ
Câu
hỏi gợi ý:
1. Có bao giờ bạn nghĩ: rất có thể mình cũng sẽ gặp
trường hợp tương tự như hai môn đệ làng Emau: một người nào đó nói chuyện với
mình, yêu cầu mình giúp đỡ, lại chính là Ðức Giêsu không? Có thể rút ra bài học
gì từ bài Tin Mừng hôm nay về sự đồng hóa giữa Ðức Giêsu và tha nhân (tha nhân
là Ðức Giêsu, Ðức Giêsu là tha nhân của ta)?
2. Có người chủ trương: yêu người chính là yêu Thiên
Chúa. Chủ trương ấy có nền tảng trong Kinh Thánh không? Hãy trưng dẫn một vài
câu tiêu biểu.
Suy
tư gợi ý:
1. Hai tông đồ ở Emau không nhận ra Ðức
Giêsu
nơi người bộ hành cùng đi với mình
Một điều khá kỳ thú trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là
các tông đồ đã sống với Ðức Giêsu suốt ba năm, đã từng nghe Ngài nói, giảng
dạy, thế mà nay, khi Ngài sống lại, cùng đi với các ông, giảng dạy cho các ông,
các ông lại không nhận ra Ngài. Có lẽ Ngài đã mang một bộ mặt xa lạ, đã đội lốt
một người bộ hành như bao bộ hành khác. Ðiều các ông không ngờ được là người mà
các ông tưởng là một bộ hành xa lạ ấy lại chính là Ðức Giêsu, Thầy mình. Các
ông chỉ nhận ra Ngài khi Ngài đồng bàn với họ, chính xác là khi Ngài cầm lấy
bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Nghĩa là khi các ông thấy có sự
giống nhau giữa người bộ hành này với Thầy mình. Rất may là các ông đã đối xử
với người bộ hành ấy rất tốt: chăm chú nghe người ấy nói, mời ở lại dùng bữa.
Nếu không thì thật đáng tiếc.
2. Coi chừng kẻo chính chúng ta
cũng không nhận ra Ðức Giêsu
nơi những người chung quanh ta
Ðiều kỳ thú đó cũng xảy ra một cách tương tự biết bao
lần trong đời sống chúng ta. Chúng ta sống với những người chung quanh mình, mà
không bao giờ hoặc rất ít khi ta nhận ra Thiên Chúa hay Ðức Giêsu ở nơi họ. Dường
như đối với ta, Thiên Chúa hay Ðức Giêsu là người ở đâu đâu, ở trên trời, ở
trong nhà tạm của nhà thờ, hoặc ở khắp nơi một cách thiêng liêng. Ngài có vẻ là
một thực tại rất trừu tượng, nếu có cụ thể thì chỉ là những ảnh vẽ, những bức tượng
bất động, vô hồn. Và tình yêu của chúng ta đối với Ngài cũng rất trừu tượng,
rất bí tích, chỉ được thể hiện bằng sự hướng thiện, bằng việc năng cầu nguyện,
năng tham dự và lãnh nhận các bí tích.
Nhưng bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta một
chân lý hết sức quan trọng. Thiên Chúa hay Ðức Giêsu có thể chính là người bộ
hành mà mình ngỡ là rất xa lạ. Nghĩa là Ngài có thể mặc lấy những bộ mặt khác
nhau, hình dáng khác nhau, với những tính tình khác nhau, tư cách điệu bộ khác
nhau nơi những người ta gặp trên đời, nơi những người sống chung quanh ta. Và
tình yêu của chúng ta nếu có đối với Ngài thì phải được thể hiện cụ thể nơi
những con người cụ thể ấy, chứ không phải một cách trừu tượng. Có thể nói: muốn
yêu Ðức Giêsu, thì cách tốt nhất, cụ thể nhất và chắc chắn nhất là yêu những người
chung quanh ta, và bất kỳ người nào ta gặp trong cuộc đời. Và cũng có thể nói
một cách chắc chắn: nếu ta không yêu những người ấy, thì ta không thật sự yêu
Ðức Giêsu hay yêu Thiên Chúa. Nếu ta tưởng rằng mình yêu Thiên Chúa, yêu Ðức Giêsu
bằng cách này hay cách khác, nhưng ta không hề yêu Ngài nơi những con người cụ
thể chung quanh ta, thì tình yêu ấy chắc chắn chỉ là một ảo tưởng. Rất có thể
ta đang yêu chính bản thân mình một cách ích kỷ, nhưng sự ích kỷ ấy lại mặc lấy
một hình thức khôn khéo là yêu Thiên Chúa hay Ðức Giêsu một cách trừu tượng.
3. Ðức Giêsu đồng hóa chính Ngài
với tha nhân của ta
Có thể nói những người chung quanh ta là những Ðức Giêsu
rất sống động, rất cụ thể. Hay nói một cách khác, trong một mức độ nào đó, họ
chính là hiện thân của Thiên Chúa hay Ðức Giêsu. Chân lý này có một nền tảng
rất vững chắc trong Kinh Thánh.
a. Tha nhân là hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1:26.27;
9:6): Chúng ta không thể yêu Thiên Chúa hay Ðức Giêsu mà không yêu hình ảnh
hay hiện thân của Ngài. Khi hai người yêu thương nhau, họ rất quí hình ảnh của
nhau, và hình ảnh đó là một biểu trưng có tính đại diện cho chính người trong
ảnh. Coi thường hay xúc phạm đến hình ảnh của một người luôn luôn được coi là
xúc phạm đến chính con người ấy. Hai môn đệ làng Emmau nhận ra người bộ hành là
Ðức Giêsu khi người ấy bẻ bánh giống như Ðức Giêsu. Con người được tạo dựng
giống như Thiên Chúa (St 1:26; 5:1), điều ấy có làm ta nhận ra Ngài nơi
họ không?
b. Tha nhân là con cái Thiên Chúa (x. Lc
20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10; ): Tất cả
chúng ta đều là con cái Thiên Chúa, đều gọi Thiên Chúa là Cha, và cùng là anh
em với nhau. Con cái một cách nào đó là hiện thân của cha mẹ. Kinh nghiệm đời
sống cho ta thấy: ai yêu cha mẹ tất nhiên cũng yêu thương anh chị em mình. Và
ai không yêu thương anh chị em mình, chắc chắn tình yêu đối với cha mẹ cũng rất
nhạt nhẽo hoặc giả tạo.
c. Từ những căn bản trên, Ðức Giêsu đồng hóa chính Ngài với
tha nhân của ta (x. Mt 10.40; 18:5; 25:40.45; Lc 10:16): Ta làm
gì cho tha nhân của ta, trước tiên là những người gần gũi ta nhất, rồi đến
những người sống chung quanh ta, những người ta thường gặp, và tất cả mọi người,
chính là làm cho Ngài. Ta yêu họ chính là ta yêu Ngài, ta ghét họ chính là ta
ghét Ngài, hy sinh cho họ là hy sinh cho Ngài, làm hại họ là làm hại chính
Ngài.
4. Yêu tha nhân là yêu Thiên Chúa,
và là chu toàn luật Chúa
Trong Cựu Ước, khi trình độ con người còn thấp, có sự
phân biệt rõ rệt giữa Thiên Chúa và tha nhân. Vì thế, có hai điều răn quan
trọng nhất là: «Hãy yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em» (Ðnl 6:5) và «hãy yêu người khác như chính mình» (Lv 19:18). Ðức Giêsu
đã nhắc lại hai điều răn ấy như hai điều luật căn bản của Lề Luật cũ.
Nhưng qua thời Tân Ước, khi trình độ của con người
cao hơn, hai điều răn ấy được tóm lại thành một: hễ yêu Chúa tất nhiên phải yêu
tha nhân, và hễ yêu tha nhân thật tình tất nhiên là đã yêu Chúa rồi. Thánh Gioan
viết: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên
Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không
trông thấy» (1Ga 4:20). Vì thế, thánh Phaolô viết: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13:8.10), «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy
là anh em chu toàn luật Ðức Kitô» (Gl 6,2). Thánh
Giacôbê cũng nói: «Anh em làm điều tốt
nếu anh em chu toàn luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình» (Gc 2:8).
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta chân
lý quan trọng này: tha nhân chính là hình ảnh, hay một cách nào đó, là hiện
thân của Thiên Chúa hay Ðức Giêsu. Vì thế, chúng ta hãy tập nhìn họ là Emmanuel
(Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta). Thiên Chúa hay Ðức Giêsu đang ở
giữa chúng ta, ở với chúng ta qua những người chung quanh ta. Do đó, cách yêu
mến Thiên Chúa mà Ngài yêu thích nhất, chính là yêu mến Ngài qua tha nhân, qua
những người mà ta vẫn gặp thường ngày. Thánh Phanxicô Assissi đã chỉ cho chúng
ta cách yêu mến Thiên Chúa của ngài: «Lạy
Chúa, xin cho con biết yêu mến và phụng sự Chúa TRONG MỌI NGƯỜI» (Kinh Hoà Bình).
Một đệ tử nọ hỏi minh sư của mình: «Thầy có nhìn thấy Thiên Chúa bao giờ không?»
Vị minh sư trả lời: «Thầy thấy Thiên Chúa
rất cụ thể như đang thấy anh bây giờ đây!» Người đệ tử liền xin: «Vậy Thầy chỉ cho con cũng nhìn thấy Thiên
Chúa đi!» Minh sư trả lời: «Thì anh
cứ mở mắt ra là thấy, nhất khi gặp bất cứ ai!». – Quả thật, với con mắt đức
tin và trí huệ, ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa ngay trong mọi người và trong
mọi tạo vật của Ngài. Thiên Chúa vô hình không khác gì dòng điện, nhưng dòng
điện trở nên hữu hình và rất cụ thể qua những biểu hiện của nó: qua đèn sáng,
qua quạt máy, qua tủ lạnh, qua rất nhiều đồ điện khác khi chúng hoạt động.
Thiên Chúa vô hình nhưng cũng trở nên hữu hình và cụ thể tương tự như vậy, qua
tha nhân và qua mọi tạo vật của Ngài.
III. CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, bài Tin Mừng hôm nay thật là tuyệt vời, nó
cho con thấy và nhắc lại cho con một chân lý kỳ diệu: Những người gần gũi với
con, sống chung quanh con một cách nào đó là hiện thân của Cha, của Ðức Giêsu.
Vì thế, yêu Cha, yêu Ðức Giêsu tất nhiên phải yêu những người ấy. Và chỉ khi con
yêu họ, con mới chứng tỏ được rằng con thật sự yêu Cha và yêu Ðức Giêsu. Xin
giúp con yêu họ thật sự bằng hành động cụ thể.
Nguyễn Chính Kết
http://1234chiase.blogspot.com
_______________
Để đọc tiếp bài 2:
Đức Giêsu đến để giải phóng tâm linh con người
(https://cstm-nam-a.blogspot.com/2023/04/a-phucsinh3b.html)
No comments:
Post a Comment